Giới thiệu Luật Thực hiện Dân chủ ở cơ sở năm 2022
Ngày 10 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023. Nội dung giới thiệu: gồm 3 phần: Phần 1. Sự cần thiết ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Phần 2. Những nội cơ bản của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Phần 3. Những điểm mới của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022
Phần 1.
Sự cần thiết ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022
Thể chế hóa chủ trương của Đảng tại Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hiện nay, các nội dung chủ yếu về thực hiện dân chủ ở cơ sở cơ bản được điều chỉnh tại 4 văn bản gồm:
Nghị quyết số 55/NQ-UBTVQH10 ngày 30/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan;
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập;
Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.
Các văn bản nêu trên đã quy định tương đối đầy đủ các nội dung, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, bảo đảm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước tại thời điểm ban hành, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân và của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại cơ sở, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta.
Kết quả thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần xây dựng môi trường chính trị dân chủ, cởi mở, thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân, củng cố niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở mỗi địa phương và trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong thời gian qua, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, Đảng đã có nhiều chỉ đạo cụ thể liên quan đến phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và yêu cầu hoàn thiện thể chế về dân chủ ở cơ sở;
Hiến pháp năm 2013 và các luật ban hành sau Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới liên quan đến quyền làm chủ và quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của Nhân dân. Đồng thời, thực tiễn thi hành pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thời gian qua cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế như:
- Pháp lệnh thiếu những quy định cụ thể, minh bạch về thời hạn, cách thức công khai nên người dân không có khả năng tiếp cận đầy đủ thông tin để thực hiện quyền năng của mình.
Ví dụ: pháp luật chỉ quy định về nội dung, hình thức công khai mà thiếu quy định đảm bảo tính minh bạch trong việc công khai của chính quyền cấp xã dẫn đến tình trạng, nhiều địa phương thực hiện việc công khai một cách “chiếu lệ” (tuy vẫn đúng nội dung cần công khai, đúng địa điểm phải công khai nhưng người dân vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp thu tất cả nội dung văn bản được công khai, như việc dán thông báo có nhiều trang trên bảng thông báo có lưới bảo vệ…); các văn bản được niêm yết ở tổ dân phố, thôn, bản, ấp chưa được bảo quản và cập nhật kịp thời; nội dung một số khoản mục quyết toán thu, chi các loại quỹ đôi khi chưa đúng quy định; tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri thành phần còn hạn chế, chủ yếu là cán bộ đảng viên, cán bộ chủ chốt tham dự; việc công khai quy hoạch, kế hoạch chi tiết sử dụng đất chưa nghiêm túc; việc niêm yết bộ thủ tục hành chính chưa được cụ thể hóa, chưa phân loại để nhân dân dễ tìm, dễ hiểu, dễ thấy để thực hiện.
- Phạm vi các vấn đề để Nhân dân quyết định còn tương đối hạn chế:
+ Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và
+ Các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
- Ngoài ra, Pháp lệnh chưa quy định cụ thể chủ thể có quyền đề xuất các vấn đề đưa ra để Nhân dân quyết định. Trên thực tế, Nhân dân chủ yếu bàn và quyết định các nội dung do Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ đạo Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố đề xuất, do vậy chưa phát huy được vai trò của người dân và các chủ thể khác trong việc đề xuất những nội dung đưa ra nhân dân bàn và quyết định trực tiếp.
Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, thể chế hóa đầy đủ chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực hiện dân chủ ở cơ sở nêu trên thì việc nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở là cần thiết.
Phần 2.
Những nội dung cơ bản của
Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022
Ngày 10/11/2022, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV biểu quyết thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, kết quả như sau: có 455 đại biểu tham gia biểu quyết (bằng 91.37% tổng số ĐBQH), trong đó có 443 đại biểu tán thành (bằng 88.96% tổng số ĐBQH); có 07 đại biểu không tán thành (bằng 1.41% tổng số ĐBQH); có 05 đại biểu không biểu quyết (bằng 1.00% tổng số ĐBQH). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023.
Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có 6 Chương, 91 Điều, đây là luật mới, lần đầu được xem xét thông qua, là dấu ấn của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV trong việc kịp thời thể chế hóa đường lối Đại hội Đảng lần thứ XIII và định hướng chương trình xây dựng pháp luật cả nhiệm kỳ khóa XV.
Trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh 34 về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định số 04, ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 145, ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động năm 2019 về điều kiện lao động và quan hệ lao động. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 có những nội dung cơ bản sau:
1. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 bao gồm 91 điều quy định về nội dung, cách thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở
Luật này Quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; quyền kiểm tra, giám sát, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các quyết định, hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; quyền thụ hưởng của công dân về thành quả phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nghĩa vụ kịp thời phản ánh, kiến nghị, báo cáo cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; Quy định phạm vi thực hiện dân chủ đối với từng loại hình cơ sở; Quy định hình thức chế tài xử lý vi phạm đối với từng nhóm chủ thể và hành vi vi phạm.
2. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 cụ thể hóa đầy đủ phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”
- Những nội dung công khai để Nhân dân biết: Các quy định liên quan đến nội dung và hình thức công khai thông tin để dân biết ở tất cả các loại hình cơ sở theo hướng cập nhật, bổ sung các quy định tương ứng trong các luật chuyên ngành như: Luật Tiếp cận thông tin và các văn bản pháp luật liên quan; bổ sung những quy định cụ thể khác nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác công khai thông tin.
Cụ thể, bổ sung quy định lựa chọn hình thức công khai thông tin tại (Điều 13); trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc công khai thông tin tại (Điều 14); bổ sung quy định về trách nhiệm của người đứng đầu và của cơ quan, đơn vị trong việc công khai thông tin tại (Điều 48); bổ sung quy định về thời gian công khai tại (Điều 65); quy định về trách nhiệm của người đại diện có thẩm quyền của tổ chức có sử dụng lao động trong việc công khai thông tin tại (Điều 66).
- Những nội dung Nhân dân bàn và quyết định:
Ở cộng đồng dân cư: Nhân dân ở thôn, tổ dân phố bàn và quyết định những nội dung quy định tại Điều 15 của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 bằng một trong các hình thức sau:
+ Tổ chức cuộc họp của thôn, tổ dân phố với thành phần tham dự gồm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, ban công tác Mặt trận Tổ quốc thôn, tổ dân phố, đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố tại (Điều 18);
+ Phát phiếu biểu quyết, lấy ý kiến tới từng hộ gia đình tại (Điều 19);
+ Trường hợp pháp luật có quy định khác về việc tổ chức toàn thể cử tri trên địa bàn, quyết định về một số nội dung cụ thể thì thực hiện theo quy định đó tại (Điều 17).
Về tỷ lệ đồng thuận để quyết định của cộng đồng dân cư có hiệu lực thi hành, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 đã phân định rõ một số trường hợp quyết định của cộng đồng dân cư (nhất là các quyết định liên quan đến các khoản đóng góp…) được thông qua khi có 2/3 trở lên hoặc trên 50% tổng số hộ gia đình tán thành để tăng tính đồng thuận trong cộng đồng dân cư, bảo đảm hiệu lực thực hiện các quyết định của cộng đồng dân cư có khả năng thực hiện trên thực tế tại (Điều 21).
Tại cơ quan, đơn vị và tại tổ chức có sử dụng lao động: Bổ sung quy định cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được bàn và quyết định trong thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị tại (Điều 49) và các nội dung người lao động bàn, quyết định trong thực hiện dân chủ ở tổ chức có sử dụng lao động tại (Điều 67). Các nội dung này được bàn và quyết định tại hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hoặc hội nghị người lao động. Trường hợp không thể tổ chức hội nghị thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị, sau khi đã thống nhất với Ban Chấp hành Công đoàn cơ quan, đơn vị, quyết định việc gửi phiếu lấy ý kiến của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị hoặc người đại diện có thẩm quyền của tổ chức có sử dụng lao động quyết định việc gửi phiếu lấy ý kiến của toàn thể người lao động trong tổ chức sau khi đã thống nhất với ban đại diện của tổ chức đại diện người lao động ở cơ sở tại (Điều 68).
- Những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến: Các quy định liên quan đến nội dung và hình thức Nhân dân tham gia ý kiến ở tất cả các loại hình cơ sở phù hợp với các luật chuyên ngành có liên quan; đồng thời bổ sung các quy định về trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, tập thể Uỷ ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã trong việc tổ chức thực hiện để Nhân dân tham gia ý kiến tại (Điều 28), trách nhiệm tham gia của Nhân dân tại (Điều 29); trách nhiệm của người đứng đầu của công đoàn cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức thực hiện và trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong việc tích cực tham gia ý kiến tại (Điều 55); việc tổ chức đối thoại tại nơi làm việc tại (Điều 73); trách nhiệm của tổ chức có sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động ở cơ sở trong việc tổ chức thực hiện và trách nhiệm của đảng viên, công đoàn viên, người lao động trong việc tích cực tham gia ý kiến tại (Điều 74).
- Những nội dung Nhân dân kiểm tra, giám sát: Nội dung, hình thức Nhân dân kiểm tra, giám sát để phát huy được sự tham gia và vai trò của từng người dân trong việc kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực, phát huy dân chủ, tăng tính phản biện và sức sáng tạo của Nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo đó, người dân kiểm tra việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đối với các nội dung mà Nhân dân đã bàn, quyết định và thực hiện giám sát việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở và việc thực hiện chính sách, pháp luật của chính quyền địa phương cấp xã, cán bộ, công chức cấp xã, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố tại (Điều 30), của người đứng đầu, ban lãnh đạo, người có thẩm quyền của cơ quan, đơn vị tại (Điều 56) và của tổ chức có sử dụng lao động, người đại diện có thẩm quyền, ban lãnh đạo, điều hành và những người có thẩm quyền khác của tổ chức có sử dụng lao động tại (Điều 75). Công dân có thể trực tiếp thực hiện việc kiểm tra, giám sát thông qua các hoạt động lao động, sản xuất, học tập, làm việc, công tác, sinh hoạt của công dân ở cộng đồng dân cư, cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động… hoặc thông qua Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng (ở xã, phường, thị trấn); thông qua hoạt động của các thiết chế đại diện (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân), qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội mà mình là thành viên cũng như các tổ chức tự quản khác tại cơ sở (tại các Điều 31, Điều 57, Điều 76).
- Những nội dung người dân thụ hưởng: Theo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, người dân được Nhà nước và pháp luật công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, các quyền về thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan; được thông tin đầy đủ về các quyền và lợi ích hợp pháp, chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội theo quy định của pháp luật và quyết định (nếu có) của chính quyền địa phương mà mình được hưởng; được thụ hưởng thành quả đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, chế độ an sinh xã hội và sự an toàn, ổn định của đất nước, của địa phương và ở cộng đồng dân cư nơi sinh sống; thành quả đổi mới, phát triển của cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động nơi làm việc; được tạo điều kiện để tham gia học tập, công tác, lao động, sản xuất, kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bản thân, gia đình và cộng đồng.
3. Cơ chế bảo đảm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở
Thể chế hóa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội “làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ”, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 đã quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Ban công tác Mặt trận Tổ quốc ở thôn, tổ dân phố, vai trò, trách nhiệm của công đoàn, tổ chức đại diện người lao động ở cơ quan, tổ chức, đơn vị trong từng việc, từng bước, từng khâu thực hiện dân chủ một cách thống nhất, xuyên suốt (tại các Điều 23, Điều 28, Điều 40, Điều 45, Điều 52, Điều 55, Điều 63, Điều 70, Điều 78, Điều 82); bổ sung các quy định về trách nhiệm của công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong thực hiện dân chủ ở cơ sở (tại Điều 24, Điều 29); quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm (tại Điều 9) và việc xử lý vi phạm pháp luật trong thực hiện dân chủ ở cơ sở (tại Điều 10) nhằm bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Phần 3.
Những điểm mới của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022
1. Luật năm 2022 đã thay đổi bố cục của nội dung về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Trong Pháp lệnh số 34, vấn đề thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được quy định ở 04 chương (từ Chương II đến Chương V) với 21 điều (từ Điều 5 đến Điều 26). Luật năm 2022 đã có sự thay đổi về bố cục thể hiện bằng cách gộp các chương (từ Chương II đến Chương V) của Pháp lệnh số 34 vào thành một chương (Chương II). Chương này được chia thành 04 mục (Mục 1. Công khai thông tin ở xã, phường, thị trấn; Mục 2: Nhân dân bàn và quyết định; Mục 3: Nhân dân tham gia ý kiến; Mục 4: Nhân dân kiểm tra, giám sát) gồm 34 điều (từ Điều 11 đến Điều 45) và
2. Về công khai thông tin ở xã, phường, thị trấn
* Những nội dung công khai
Theo Điều 5 Pháp lệnh số 34, có 11 nội dung phải công khai thông tin cho Nhân dân biết, trong khi đó, theo Điều 5 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 thì công dân được quyền tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, trừ những thông tin không được tiếp cận và được tiếp cận có điều kiện theo quy định. Như vậy, quy định của Pháp lệnh số 34 về các nội dung phải công khai hẹp hơn quy định của Luật Tiếp cận thông tin, hệ quả là không bảo đảm đầy đủ yêu cầu “dân biết” khi thực hiện dân chủ ở cơ sở. Để khắc phục hạn chế này, Điều 11 Luật năm 2022 quy định có 14 nhóm nội dung phải công khai ở xã, phường, thị trấn, trừ các thông tin thuộc bí mật nhà nước hoặc thông tin chưa được công khai theo quy định của pháp luật.
Bằng việc mở rộng phạm vi công khai thông tin ở xã, phường, thị trấn., Luật năm 2022 đã cụ thể hóa quyền tiếp cận thông tin tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền ... tiếp cận thông tin”. Việc người dân có đầy đủ các nguồn thông tin giúp họ nâng cao hiểu biết và nhận thức, chủ động, tích cực, tự giác thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước và hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư. Trên cơ sở được biết thông tin, Nhân dân mới kịp thời kiến nghị đến các cơ quan nhà nước để hoàn thiện chính sách, pháp luật.
* Hình thức công khai thông tin
Hình thức công khai thông tin rất quan trọng để người dân nắm được những nội dung có liên quan mà chính quyền công khai. Điều 6 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định có 03 hình thức công khai thông tin, đó là: Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân cấp xã; Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến Nhân dân. Điều 12 Luật năm 2022 ngoài việc kế thừa 03 hình thức công khai thông tin như Pháp lệnh số 34, còn bổ sung thêm 07 hình thức công khai thông tin mới tại khoản b, đ, e, g, h, i, k.
Như vậy, Luật đã đa dạng hóa các hình thức công khai thông tin ở cấp cơ sở để dân biết, để dân bàn theo đúng sự thật, đúng chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, với tinh thần xây dựng, tích cực nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đây là một trong những điểm nổi bật của Luật
* Thời điểm công khai thông tin
Khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh số 34 quy định: Chính quyền cấp xã có trách nhiệm tổ chức công khai thông tin chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản được thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên.
Điều 12 Luật năm 2022 tại mục 3 sửa lại là: “Thời điểm công khai thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan. Trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định, văn bản của cơ quan có thẩm quyền về nội dung cần công khai”.
Như vậy, Luật năm 2022 đã kéo dài thời điểm công khai thông tin từ 02 ngày lên 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định, văn bản của cơ quan có thẩm quyền về nội dung cần công khai.
Luật năm 2022 quy định riêng thời gian công khai trong các trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 13 Điều 11, đó là: Đối với các thông tin về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp xã (khoản 4 Điều 11); Các thủ tục hành chính, thủ tục giải quyết công việc liên quan đến tổ chức, cá nhân do chính quyền địa phương cấp xã trực tiếp thực hiện (khoản 13 Điều 11) thì UBND cấp xã phải niêm yết thường xuyên tại trụ sở Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân cấp xã và được cập nhật khi có sự thay đổi.
Ngoài ra, Luật năm 2022 còn quy định cụ thể các hình thức để Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố thông báo thông tin đến Nhân dân, gồm: thông báo tại cuộc họp của cộng đồng dân cư, cuộc họp, sinh hoạt của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức, đoàn thể khác ở thôn, tổ dân phố; thông báo trực tiếp hoặc gửi văn bản thông báo đến từng hộ gia đình; thông qua tin nhắn đến đại diện hộ gia đình hoặc sử dụng mạng xã hội hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật và đã được cộng đồng dân cư thống nhất lựa chọn.
Những quy định về công khai thông tin trong Luật năm 2022 đầy đủ và cụ thể hơn hơn, giúp Nhân dân tiếp cận được một cách đầy đủ, đa chiều các thông tin liên quan đến cuộc sống của mình, biết được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực để từ đó tích cực, chủ động trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Trên cơ sở quyền được biết, Nhân dân mới có thể thực hiện quyền được bàn và quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền kiểm tra, giám sát đối với những nội dung liên quan tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của người dân ở xã, phường, thị trấn bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
2. Nhân dân bàn và quyết định
* Những nội dung Nhân dân bàn và quyết định
Pháp lệnh số 34 quy định 03 nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp. Điều 15 Luật năm 2022 kế thừa 03 nội dung này và bổ sung thêm 03 nội dung Nhân dân bàn và quyết định liên quan đến các khoản đóng góp của Nhân dân, các công việc nội bộ của cộng đồng dân cư.
Như vậy, các nội dung người dân bàn và quyết định được quy định rất đa dạng, phong phú, cho phép người dân có thể biểu đạt được ý chí, nguyện vọng của mình với các cơ quan nhà nước trong việc hoạch định, cũng như thực thi chính sách, pháp luật.
Để thực hiện các nội dung Nhân dân bàn và quyết định, Luật năm 2022 còn bổ sung quy định việc đề xuất nội dung Nhân dân bàn và quyết định tại Điều 16. Đây là quy định mới của Luật năm 2022 . Thực tế triển khai Pháp lệnh số 34 cho thấy Nhân dân chủ yếu bàn và quyết định các nội dung do Ủy ban Nhân dân cấp xã chỉ đạo trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố đề xuất mà chưa có quy định về việc người dân được tự mình đề xuất sáng kiến, đưa ra để cộng đồng dân cư bàn và quyết định.
Điều 16 tại mục 3: “Công dân cư trú tại thôn, tổ dân phố có sáng kiến đề xuất về nội dung quy định tại Điều 15 của Luật này và được ít nhất là 10% tổng số hộ gia đình tại thôn, tổ dân phố đồng thuận thì gửi đề xuất đến Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để đưa ra cộng đồng dân cư bàn và quyết định nếu không trái với quy định của pháp luật, phù hợp với thuần phong, mỹ tục và đạo đức xã hội”.
Việc bổ sung quy định công dân sinh sống tại cộng đồng dân cư có quyền đề xuất nội dung Nhân dân bàn và quyết định nhằm tăng cường việc thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013, người dân sẽ tích cực tham gia hoạt động “dân bàn”, bảo đảm “dân bàn” được tổ chức thực chất hơn.
* Hình thức Nhân dân bàn và quyết định
Điều 11 Pháp lệnh số 34 quy định 02 hình thức Nhân dân bàn và quyết định, đó là:
“a) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố;
b) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình”.
Điều 17 Luật năm 2022, ngoài việc kế thừa 02 hình thức trên còn bổ sung thêm hình thức: “c) Biểu quyết trực tuyến phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và được cộng đồng dân cư thống nhất lựa chọn”. Hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp cộng đồng dân cư quyết định các công việc quy định tại khoản 6 Điều 15 của Luật này mà Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố sau khi thống nhất với Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố thấy không cần thiết tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư hoặc phát phiếu lấy ý kiến của từng hộ gia đình.
Ngoài ra, Luật năm 2022 còn bổ sung điều khoản quy định về trình tự tổ chức cuộc họp cộng đồng dân cư và việc phát phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình.
* Quyết định của cộng đồng dân cư
Pháp lệnh số 34 không có quy định về nội dung, hình thức, hiệu lực của quyết định của cộng đồng dân cư, vấn đề sửa đổi, bổ sung thay thế các nội dung mà cộng đồng dân cư bàn và quyết định. Điều 20 Luật năm 2022 đã bổ sung để làm rõ nội dung này.
Những sửa đổi, bổ sung các vấn đề Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp trong Luật năm 2022 phù hợp với tình hình thực tiễn và nhu cầu nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, từ đó để mở rộng dân chủ trực tiếp cho Nhân dân, phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của Nhân dân tham gia bàn và quyết định các vấn đề của địa phương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo sự đồng thuận trong xã hội, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.
* Những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định
Điều 21 Pháp lệnh số 34 quy định 05 nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Thực tiễn thi hành quy định này cho thấy, nội dung tham gia ý kiến của Nhân dân vào các hoạt động của chính quyền cấp cơ sở và của các cấp chính quyền, đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành các quyết định hành chính còn hạn chế, dẫn đến có nhiều vụ khiếu nại, khiếu kiện đối với các quyết định hành chính của chính quyền cấp xã, tiêu biểu như: Các vụ khiếu kiện, khiếu nại theo thống kê khoảng 70% liên quan đến lĩnh vực đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng. Để khắc phục hạn chế này, Luật năm 2022 ngoài việc kế thừa các nội dung này còn bổ sung thêm một số nội dung Nhân dân tham gia ý kiến như:
- Dự thảo quyết định hành chính của Ủy ban Nhân dân cấp xã có liên quan đến lợi ích cộng đồng, bao gồm quyết định ban hành hoặc phê duyệt chương trình, kế hoạch, dự án, đề án có nội dung tác động đến môi trường, sức khỏe của cộng đồng, trật tự, an toàn xã hội và những vấn đề khác có ảnh hưởng đến cộng đồng.
- Dự thảo nhiệm vụ và đồ án quy hoạch chung xây dựng, dự thảo nhiệm vụ và đồ án quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây dựng và quy hoạch chung xây dựng xã, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn.
- Dự thảo quy chế về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; dự thảo quy chế thực hiện dân chủ trong từng lĩnh vực, nội dung hoạt động cụ thể ở xã, phường, thị trấn (nếu có).
- Dự thảo quyết định hành chính có nội dung xác lập nghĩa vụ hoặc làm chấm dứt, hạn chế quyền, lợi ích của đối tượng thi hành là công dân trên địa bàn cấp xã.
* Hình thức Nhân dân tham gia ý kiến
Điều 20 Pháp lệnh số 34 quy định chỉ có 03 hình thức Nhân dân tham gia ý kiến. Điều 26 Luật năm 2022 mở rộng thành 08 hình thức nhằm tạo ra nhiều “diễn đàn” để Nhân dân tham gia ý kiến.
* Trách nhiệm của Nhân dân trong việc tham gia ý kiến về các nội dung ở xã, phường, thị trấn
Đây là quy định mới của Luật năm 2022. Theo đó, Luật năm 2022 quy định rõ cán bộ, công chức, đảng viên và mọi công dân cư trú trên địa bàn có trách nhiệm tích cực tham gia ý kiến về những nội dung liên quan trực tiếp đến đời sống của cộng đồng dân cư để làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, của đất nước.
Các quy định về Nhân dân tham gia ý kiến được sửa đổi theo hướng tạo những điều kiện thuận lợi nhất để Nhân dân tích cực bày tỏ ý kiến của mình về những nội dung liên quan trực tiếp đến đời sống của cộng đồng dân cư để làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, của đất nước. Việc phản hồi từ phía người dân sẽ giúp các cơ quan nhà nước cân nhắc, lựa chọn và đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với lòng dân, tăng hiệu quả của chính sách. Cơ chế thông tin hai chiều giữa Nhà nước và công dân sẽ giúp cho việc quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả hơn, tăng tính trách nhiệm của công dân cũng như của các cơ quan công quyền. Từ đó, việc thực hiện dân chủ ngày càng thực chất và đầy đủ, huy động một cách triệt để, hiệu quả các nguồn lực, trước hết là trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy ấm no, hạnh phúc của Nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước. Thông qua việc lắng nghe ý kiến phản hồi từ Nhân dân, mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân còn được củng cố và tăng cường.
5. Nhân dân kiểm tra, giám sát (Điều 30 đến Điều 45)
Pháp lệnh số 34 chỉ đề cập đến hoạt động giám sát của Nhân dân. Luật năm 2022 đã bổ sung thêm hoạt động kiểm tra để thiết kế thành một mục (Mục 4): “Nhân dân kiểm tra, giám sát”.
* Nội dung kiểm tra, giám sát
Điều 23 Pháp lệnh số 34 quy định một cách ngắn gọn về những nội dung Nhân dân giám sát:
“Nhân dân giám sát việc thực hiện các nội dung quy định tại các điều 5, 10, 13 và 19 của Pháp lệnh này”.
Điều 30 Luật năm 2022 được thiết kế thành hai khoản. Một khoản quy định cụ thể các nội dung Nhân dân thực hiện việc kiểm tra; một khoản quy định cụ thể các nội dung Nhân dân thực hiện việc giám sát.
* Hình thức kiểm tra, giám sát
Bên cạnh việc kế thừa hình thức của Pháp lệnh số 34, Luật năm 2022 đã bổ sung thêm các hình thức mới:
- Hoạt động lao động, sản xuất, học tập, công tác, sinh hoạt của công dân ở cộng đồng dân cư;
- Quan sát, tìm hiểu, giao tiếp với cán bộ, công chức cấp xã, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố và người dân ở cộng đồng dân cư;
- Tiếp cận các thông tin được công khai; các thông tin, báo cáo của chính quyền địa phương cấp xã, cán bộ, công chức cấp xã, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao quản lý hoặc thực hiện các nội dung Nhân dân đã bàn và quyết định;
- Tham dự hội nghị trao đổi, đối thoại giữa Ủy ban Nhân dân cấp xã với Nhân dân, hội nghị tiếp xúc cử tri, hoạt động tiếp công dân; hội nghị định kỳ và các cuộc họp khác của cộng đồng dân cư.
- Các tổ chức tự quản khác ở địa phương được thành lập theo quy định của pháp luật.
Việc mở rộng hình thức kiểm tra, giám sát chính là tạo điều kiện để thực hiện hiệu quả vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ theo đúng pháp luật và vì lợi ích của cọng đồng dân cư.
* Ban Thanh tra Nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng
Đây là quy định mới của Luật năm 202. Hoạt động giám sát của Nhân dân thông qua Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng được coi là một kênh quan trọng để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần tích cực trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định kiểm tra, giám sát trong Luật nhằm bảo đảm các quyết định đã được Nhân dân bàn và quyết định được thực thi trong thực tiễn; Nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực có cơ sở pháp lý vững chắc để theo dõi, xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc thực hiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở của chính quyền địa phương cấp xã, cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố.
Luật năm 2022 là nền tảng chính trị, pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện đường lối, chủ trương; chính sách, pháp luật về dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói riêng, từ đó góp phần hoàn thiện các thiết chế về dân chủ. Các quy định của Luật năm 2022 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhằm tiếp tục khẳng định và góp phần thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” của Đảng, bảo đảm quyền làm chủ và vai trò tự quản của Nhân dân ngay từ cấp cơ sở./.
Sưu tầm
- bài tuyên truyền về tiếp cận pháp luật
- tuyên truyền về luật hòa giải
- Xã Hoằng Lưu tổ chức hội nghị bồi dưỡng kiến thức PBGDPL; kỹ năng hoà giải và PBGDPL năm 2024
- Công khai nội dung về trợ giúp pháp lý
- Hoằng Lưu kêu gọi Ủng hộ, hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, gia đình chính sách, hộ còn khó khăn về nhà ở trên địa bàn xã
- Danh sách hòa giải viên pháp luật xã Hoằng Lưu
- Danh sách tuyên truyền viên pháp luật xã Hoằng Lưu
- Bài tuyên truyền về sử dụng thực phẩm
- trích một số điều về luật nghĩa vụ quân sự mà nhân dân cần biết
- tuyên truyền luật hôn nhân và gia đình
- Công bố công khai báo cáo thành tích đề nghị xét tặng danh hiệu “Thôn, tổ dân phố văn hóa” năm 2024
- Công khai kết quả giải quyết TTHC tuần 02/10/2024
- Công khai kết quả giải quyết TTHC tuần 01 tháng 10 năm 2024
- Công khai kết quả giải quyết TTHC tuần 02 tháng 9 năm 2024
- Công khai kết quả giải quyết TTHC tuần 4 tháng 8 năm 2024